Điều trị dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi bằng Laser Nd: YAG
Điều trị dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi bằng Laser Nd: YAG
PGS.TS.BS.Phạm Hữu Nghị
Tóm tắt:
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả điều trị dị dạng tĩnh mạch lưỡi bằng laser Nd: YAG và ưu nhược điểm của phương pháp này.
Đối tượng và phương pháp: 25 bệnh nhân có dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi. Dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi được đánh giá theo các tiêu chí: vị trí ở lưỡi (dọc, ngang), kích thước, thể bệnh, tổn thương ngoài lưỡi, biến chứng. Laser Nd: YAG chiếu quang đông trực tiếp vào khối dị dạng.
Kết quả: 84% BN đạt kết quả tốt, 16% bệnh nhân đạt kết quả vừa, không có kết quả kém với số lần điều trị trung bình 1,4 lần. Ít biến chứng, ít có tái phát, bảo tồn được hình thái giải phẫu và thẩm mỹ của lưỡi.
Kết luận: Điều trị dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi bằng laser Nd: YAG là một phương pháp điều trị có hiệu quả cao, ít biến chứng, bảo tồn được hình thái giải phẫu.
Từ khóa: Dị dạng tĩnh mạch; Laser Nd: YAG.
I. Đặt vấn đề:
Ngày nay với phân loại hiện đại về các bất thường mạch máu, các dị dạng mạch máu đã được phân biệt rõ ràng với các u mạch máu. Dị dạng mạch máu (DDMM) có thể gặp ở bất cứ nơi nào trên cơ thể, riêng vùng đầu mặt cổ DDMM chiếm tỉ lệ 14-65 %, trong đó lưỡi cũng là một vị trí dễ gặp các DDMM. Năm 2003, nghiên cứu của Kobayashi K và cộng sự với 67 bệnh nhân có DDMM ở vùng đầu mặt cổ đã có gần 23,9 % DDMM ở lưỡi, trong đó chủ yếu là dị dạng tĩnh mạch (DDTM). Các DDTM ở lưỡi thường dễ nhận thấy nên luôn làm bệnh nhân và gia đình họ lo lắng. Các dị dạng này khi to có thể làm ảnh hưởng đến các chức năng như ăn uống, nói (nói ngọng)… Hiện nay trên thế giới, điều trị DDTM chủ yếu là các phương pháp tiêm xơ (Sclerotherathy), phẫu thuật (Surgery), nút mạch (Embolization) và laser . Ở Việt Nam, việc điều trị các DDMM nói chung và các DDTM nói riêng, nhất là ở lưỡi còn nhiều khó khăn và chủ yếu là phẫu thuật, trong khi đó điều trị bằng laser vẫn còn mới. Chúng tôi đã ứng dụng laser Nd: YAG trong điều trị các DDTM từ năm 2000 đến nay, nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá hiệu quả điều trị của laser Nd: YAG với riêng các DDTM ở lưỡi.
II. Đối tượng và phương pháp
1- Đối tượng:
- Là bệnh nhân có DDTM ở lưỡi trong thời gian từ năm 2000 đến tháng 12/2016.
- Tiêu chuẩn lưa chọn: Các DDTM ở lưỡi được xác định bằng chẩn đoán lâm sàng với các đặc điểm: có màu đỏ xanh tím, không có đập nẩy, không có rung miu, dãn to khi đường dẫn lưu bị cản trở (nhịn thở, cúi đầu…) và bệnh sử tiến triển dãn to dần theo thời gian, không có giai đoạn thoái lui. Chẩn đoán CT (Computer Tomography) khi cần để khẳng định lại và xác định rõ hình thái và phạm vi tổn thương.
- Tiêu chuẩn loại trừ: là các tổn thương đang bị viêm loét hay chảy máu. Các bệnh nhân bị mất liên lạc.
2- Phương tiện điều trị (Laser Nd: YAG):
Máy laser Nd: YAG liên tục và máy laser Nd: YAG xung dài
3- Đánh giá kết quả điều trị:
- Thời điểm đánh giá kết quả: sau điều trị ít nhất 3 tháng
- Đánh giá kết quả dựa trên hiệu quả làm hết tổn thương mạch máu, sự tái phát , mức độ sẹo và mức độ ảnh hưởng về chức phận và thực thể. Đánh giá này được cho điểm để lượng hóa.
- Bảng 1: Lượng hóa các tiêu chí đánh giá bằng điểm
Mức độ hết tổn thương |
Điểm |
Tình trạng sẹo |
Điểm |
Hết 100% |
4 |
Không có sẹo |
2 |
Hết 70 - < 100% |
3 |
Sẹo mềm mại |
1 |
Hết 50 - 70 % |
2 |
Sẹo cứng, không co kéo |
0 |
Hết < 50% |
1 |
Sẹo co kéo |
-1 |
Không thay đổi |
0 |
|
|
Chức năng ăn, nói, nuốt |
Điểm |
Thẩm mỹ |
Điểm |
Như bình thường |
2 |
Phục hồi BT, hết biến dạng |
2 |
Có cải thiện, nhưng chưa BT |
1 |
Còn biến dạng nhẹ |
1 |
Không cải thiện |
0 |
Vẫn như cũ, không thay đổi |
0 |
Kém hơn trước |
-1 |
Biến dạng xấu hơn |
-1 |
・Tiêu chuẩn mức độ kết quả điều trị (bảng 2).
Bảng 2. Tiêu chuẩn của mức độ kết quả điều trị
Mức độ kết quả |
Điểm |
Tốt |
8-10 |
Vừa |
3-7 |
Kém |
≤ 2 |
4- Xử lý số liệu bằng phần mền thống kê
III. Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm bệnh nhân nhóm nghiên cứu
- Tổng số bệnh nhân (BN): 25 người
- Giới tính: Nam: 14 BN = 56,0 %. Nữ: 11 BN = 44,0 %
- Tuổi : từ 3 tuổi đến 82 tuổi. Tuổi trung bình: 33,64 .
Trong đó tuổi dưới 15 là 5 BN (= 20 %). Tuổi từ 60 trở lên: 4 BN (=16%)
Hình 1: BN Nguyễn Thị Ph, nữ, 32 tuổi, có DDTM nhỏ, khu trú ở bờ lưỡi phải.
A - ảnh trước điều trị |
B - ảnh sau điều trị đạt kết quả tốt |
|
|
Hình 2: Vũ Thái B, nam, 45 tuổi, bị DDTM khu trú ở mặt trên thân lưỡi.
A - ảnh trước điều trị |
B - ảnh sau điều trị đạt kết quả tốt |
|
|
IV. Bàn luận
Bệnh cảnh lâm sàng của DDTM ở lưỡi của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là khá đặc biệt. Tuổi trung bình của bệnh nhân là trên 33 (thấp nhất là 3 và cao nhất là 82 tuổi) có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh u mạch máu. Điều này phản ánh tiến triển của dị dạng tĩnh mạch (DDTM) khác với u mạch máu là không tự thoái lui mà có xu hướng ngày càng lan rộng do các mạch máu dãn rộng ra và càng nhiều tuổi biểu hiện càng rõ ràng nên buộc bệnh nhân phải đi khám để điều trị. Tuy nhiên có 3 bệnh nhân trẻ em đến với chúng tôi lúc 3 tuổi, các DDTM lưỡi đã rất lớn và lan rộng. Đặc điểm lâm sàng của các DDTM ở lưỡi rất phong phú và đa dạng. Chúng tôi gặp các tổn thương này có thể có ở mọi vị trí ở lưỡi, to nhỏ khác nhau như nhiều tác giả đã gặp. Đặc biệt các DDTM ở đầu, thân lưỡi (chiếm 88,22%) và có đường kính dưới 2 cm (chiếm76%), DDTM thể khu trú (chiếm 64%) là thường gặp hơn. Tất cả các DDTM ở lưỡi mà chúng tôi gặp đều có biểu hiện ở bề mặt lưỡi là màu xanh tím đỏ, nổi gồ, mềm, không đập nảy, không rung miu (biểu hiện của tĩnh mạch dãn và máu ứ trệ) giống nhận xét của Yu-Wei Chui et al. Chúng tôi chưa gặp DDTM nào (ở sâu trong lưỡi) mà không có biểu hiện ở bề mặt lưỡi. Một số DDTM trong nhóm nghiên cứu có bệnh lý nặng: lan tỏa, kích thước lớn không chỉ ở lưỡi mà còn cả ở niêm mạc má môi và sàn miệng. Chúng tôi chưa gặp bệnh nhân nào có hội chứng Bean như Xue-Li Jin et al (2014) đã gặp. Do tổn thương ở lưỡi nên các DDTM có thể gây các tổn thương thực thể và chức năng như nói ngọng, ăn khó, nuốt vướng, biến dạng… đặc biệt nếu bị chạm thương khi ăn có thể gây chảy máu khó cầm. Trong 25 trường hợp DDTM ở lưỡi của chúng tôi, có 3 bệnh nhân chảy máu, 4 bệnh nhân nói ngọng. Các DDTM có kích thước lớn, lan tỏa hầu hết gây biến dạng làm to lưỡi gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ và ảnh hưởng chức năng vận động của lưỡi. Các phương pháp thường dùng để điều trị các DDTM trong khoang miệng nói chung và ở lưỡi nói riêng là phẫu thuật, tiêm xơ và nút mạch. Phẫu thuật cắt bỏ tổn thương và khâu xơ… nhưng các tổn thương rộng lớn, lan tỏa ở lưỡi thường gặp nhiều khó khăn khi phẫu thuật như chảy máu nhiều, mất tổ chức gây biến dạng lưỡi và nếu lấy không hết tổn thương sẽ dễ tái phát. Phương pháp tiêm xơ làm giảm kích thước các tổn thương mạch máu song đòi hỏi phải điều trị nhiều lần, bệnh nhân bị đau và xưng nề nhiều và bị ảnh hưởng do độc tính của chất gây xơ, khi DDTM ở gốc lưỡi có thể gây phù nề phần hầu họng làm cản trở thông khí. Trong phương pháp laser, laser Argon, laser copper vapor, laser YAG/KTP, laser Nd: YAG đã được dùng và tỏ ra có nhiều ưu điểm. Chúng tôi thấy quang đông điều trị các DDTM ở lưỡi bằng laser Nd: YAG có nhiều ưu điểm: trước hết là đơn giản hơn nhiều so với phương pháp phẫu thuật, có hiệu quả cao trong việc phá huỷ các tổn thương mạch máu ngay dưới niêm mạc (trong đó có nhiều trường hợp mạch dãn to và rộng), không gây chảy máu khi chiếu, không làm thiếu hụt niêm mạc, không gây biến dạng giải phẫu đáng kể cả khi tổn thương rộng..., số lần điều trị ít (1,4 lần). Sẹo sau khi liền vết thương chấp nhận được vì mềm mại và không co kéo và do ở trong khoang miệng nên không ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ. Chức năng của lưỡi được được cải thiện và bình thường trở lại.
V. Kết luận:
Điều trị các dị dạng tĩnh mạch ở lưỡi bằng laser Nd: YAG là một phương pháp điều trị có hiệu quả cao (đạt 84% BN kết quả tốt) với số lần điều trị ít (trung bình 1,4 lần điều trị) , ít biến chứng, ít có tái phát, bảo tồn được hình thái giải phẫu và thẩm mỹ của lưỡi. Tổn thương có kích thước càng nhỏ và khu trú thường đáp ứng tốt với điều trị.